Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu hay nhất – Ngữ văn lớp 10

Photo of author
Written By Trường Tiểu Học Đằng Hải

Trường Tiểu học Đằng Hải được thành lập từ việc tách bộ phận cấp I của trường Phổ thông cơ sở Đằng Hải năm 1993.

 

 

 

 

Bạn đang xem: Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu hay nhất – Ngữ văn lớp 10 tại Trường Tiểu học Đằng Hải

Bài giảng: Phú sông Bạch Đằng – Cô Trương Khánh Linh (giáo viên )

Đề bài: Phân tích bài phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu.

Mỗi chúng ta thường có một nơi để gửi gắm những kỷ niệm của mình. Nhà văn, nhà thơ cũng vậy, họ thường chọn cho mình một vùng đất, một dòng sông. Và có bao nhiêu tiền gửi tinh thần được vượt qua. Trở lại thế kỷ XIV, văn học trung đại nước nhà có một nhà thơ như thế. Đó chính là Trương Hán Siêu – nhà thơ một lòng với dòng sông Bạch Đằng hùng vĩ của lịch sử qua áng văn Phú sông Bạch Đằng nổi tiếng. Có lẽ bao nhiêu tâm tư của cả một đời cống hiến đều dồn vào dòng chảy vĩnh hằng ấy để tạo nên một tác phẩm trở thành đỉnh cao của thơ ca, văn học dân tộc.

Phủ sông Bạch Đằng (tên Hán là Bạch Đằng Giang phủ) được tiên đoán ra đời khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi của nhà Trần. Lấy cảm hứng từ một đề tài không xa lạ, bởi sông Bạch Đằng đã trở thành chất liệu thi ca của nhiều thi nhân như Trần Minh Tông, Nguyễn Sương, và sau này là Nguyễn Trãi. Nhưng Trương Hán Siêu trong Phú sông Bạch Đằng đã mang đến biết bao cảm xúc vừa chân thực, tha thiết, vừa hoài cổ vừa xúc động khơi dậy lòng tự hào, lòng yêu nước và khẳng định những tư tưởng nhân văn cao cả về giá trị làm người. Nhiều sử liệu cho rằng, Trương Hán Siêu sáng tác bài này vào lúc đất nước dưới thời Trần (hai vua Trần Hiến Tông và Trần Dụ Tông) có dấu hiệu suy thoái. Là đại thần, học vấn uyên thâm, tính tình nhân đức, trải qua 4 đời vua Trần, ông đều được các vua kính trọng, gọi là “thầy”. Trước tình hình đó, ông cảm thấy chán nản và lo lắng. du lịch đây đó một mình. Và đích đến của ông không đâu khác chính là dòng sông Bạch Đằng để tưởng nhớ về một thời vàng son của dân tộc. Có lẽ vì thế mà bài mới toát lên dư vị hỗn độn của một tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn, một sử gia hoài cổ và một nỗi niềm thầm kín của con người.

Với đặc trưng cơ bản của thể loại phú cổ, Phú sông Bạch Đằng có bố cục 4 đoạn (mở bài, thuyết minh, bình luận, kết bài) và có hình thức đối thoại quen thuộc giữa nhân vật “khách” và “khách”. ông đồ” là hư cấu của tác giả. Tuy nhiên, điểm tựa của toàn bài thơ là cảm xúc, tâm trạng của nhân vật “khách”, được bộc lộ xuyên suốt từ khi đặt chân lên sông Bạch Đằng cho đến khi nghe kể chuyện hào hùng về chiến tranh, công việc trên dòng sông ấy của các bô lão.. Vì vậy, nhiều ý kiến ​​đánh giá cho rằng, kết cấu của bài thơ giống một bài thơ hơn là một bài văn tự sự, tả cảnh thông thường.

Cứ thế, nhân vật “khách” bước ra đầy thi vị, cảm hứng của một khách đi biển:

Khách có kẻ:

Ra khơi và chơi với gió,

Học Tử Trường chờ tiêu tiền

Qua hàng loạt hình ảnh ước lệ, phóng đại, buồm căng gió, lướt bể chơi trăng, sớm gõ thuyền, buổi chiều thăm gợi cả không gian và thời gian rộng mở. Thêm từ chơi vơi, mải mê thể hiện đậm nét tâm hồn của khách, kẻ đang phiêu du cùng đất trời, mãn nguyện nhưng phóng khoáng, ngao du. Khách xuất hiện như mang theo giấc mơ biển hồ, hòa mình vào thiên nhiên. Kẻ lang thang ấy đã mang theo hàng loạt danh lam, thắng cảnh của Trung Quốc mà chỉ biết trong sách vở. Nào là Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, nào là Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt, Vân Mộng… người ta đi đâu, về đâu không biết, chứa vài trăm trong bụng cũng là nhiều. Có cả một bậc học thức thâm sâu hay chỉ là một cách để vị khách đó thỏa mãn dục vọng vẫn còn yêu thích của mình để thỏa mãn sự bài trí bốn phương? Dù sao, vì trước hết, lối trang trí ấy mang trong mình tâm thế của một nhà thơ đầy lãng mạn, thích du ngoạn. Vì vậy, học Tử Trường không phải là học lối sử quan mà học cái thú tiêu dao, cái thú hưởng thụ để giữa dòng đời không bỏ lỡ cảnh đẹp thơ văn, mở mang tầm hiểu biết. .

Nhưng giấc mơ về hồ ấy bỗng thành hiện thực khi con thuyền đổi hướng:

Qua cổng Đại Than, đối diện bến Đông Triều

Tiếc rằng dấu vết luống cày vẫn còn

Một lần nữa, thủ thuật liệt kê lại đưa chúng ta đến những địa điểm khác, nhưng lần này là có thật, đó là dòng nước dẫn ra sông Bạch Đằng. Và hiện ra trước mắt người nghệ sĩ một Bạch Đằng trong cảnh ngược đời. Đó là một cảnh đẹp của thiên nhiên. Người xưa thường nói: “Thiện trung là tốt” quả không sai. Trên trời, dưới nước mênh mông, một Bạch Đằng không bao giờ vắng lặng mà vẫn dịu dàng thơ mộng: sóng ngàn dặm/ đuôi trĩu một màu/ nước trời: một màu/ cảnh sắc: ba thu. Bức tranh mở ra theo chiều rộng, giải quyết theo chiều sâu. Hai chữ rộng rãi nhàn nhã khiến biên độ càng lớn. Nhưng cảnh thu đi vào hồn thu, cảnh đẹp mà buồn. Vì bờ lau sậy, bến vắng hiu quạnh, vì dư âm quá khứ bi thương. Không phải vì thế mà cảm xúc của con người chuyển từ sung sướng, tự hào sang sầu muộn, ủ ê, thương tâm, tiếc thương cho những giá trị lịch sử hào hùng đã mai một trước dòng chảy khắc nghiệt của thời đại. thời gian. Trước khung cảnh hoang sơ ấy, lòng người sao tránh khỏi cảm xúc, trăn trở, nhớ nhung! Như Nguyễn Trãi:

Công việc trước quay lại, ôi thôi rồi

Đi xếp hàng ngắm cảnh đượm buồn

(Cửa biển Bạch Đằng)

Tâm trạng và cảm xúc đó là lý do cho cuộc trò chuyện với những người lớn tuổi trong phần tiếp theo. Cuộc đối thoại này diễn ra vừa như một quy ước văn học, vừa như một nhu cầu chia sẻ, cắt nghĩa để đánh thức một quá khứ tưởng đã ngủ quên. Các bô lão – người dân địa phương, cũng có thể là nhân chứng lịch sử trực tiếp tham gia trận Bạch Đằng năm xưa, đối xử với “khách” với thái độ trân trọng, nhiệt tình (xin ý kiến). Ước gì, gậy lê đi trước, thuyền nhẹ bơi sau, cúi chào tôi.) Là người trong cuộc, họ đã tái hiện, phục dựng một bức tranh đã nhuốm màu dâu tằm, phủi bụi của thời gian.

Đây là nơi Nhị Thánh Trùng Hưng bắt Ô Mã

Cũng là đất xưa, xưa chúa Ngô diệt Hoằng Thao

Đó là hai trận đánh lịch sử ghi dấu những chiến công hiển hách, vang dội nhất trên dòng sông Bạch Đằng. Mang đậm sắc thái tự sự, lối viết phóng đại, cảm hứng sử thi vũ trụ, quy mô của cuộc chiến “anh hùng” diễn ra ngang tài, ngang sức, không phân thắng bại:

Trong khi đó:

Thuyền nhiều đội, tinh thần phấp phới

Tái tạo công đức, ca tụng ngàn xưa.

Các vua, các tướng của ta được tôn là “Tùng Hưng nhị thánh”, “Võ chúa”, kẻ thù chỉ gọi tên họ, họ như con thiêu thân lao vào lửa, chỉ có Hốt Tất Liệt trần trụi, Lưu Công. “Gieo gió, gặt bão”, đó là quy luật tất yếu phải nhận của những kẻ kiêu căng, hiếu chiến. Không phải tự nhiên mà Trương Hán Siêu lại dùng kinh điển Trung Quốc ở trận Xích Bích và trận Hợp Phì để so sánh. Điểm tương đồng giữa quá khứ và hiện tại vừa để khẳng định chiến thắng vang dội vừa ngầm niềm tự hào vô hạn của một nước nhỏ, hay bị coi thường với nước lớn như Trung Quốc. Tan tành tro bay / chết hẳn, ngược lại, nhấn mạnh sự bại trận của kẻ thù ôm mộng: một lần gieo roi / quét sạch bốn cõi nước Nam để non sông chảy mãi mà làm nhục quân thù. giặt nổi. Giọng văn đầy nghị lực, hùng hồn đã khơi dậy tinh thần yêu nước và niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống vẻ vang, vẻ vang của dân tộc.

Điểm nhấn lớn của bài là kì tích trên sông Bạch Đằng không phải là thần thoại mà nó lí giải rõ ràng nguyên nhân. Trong các bình luận của các bô lão có nhắc đến phép dùng binh trong sách cổ, với ba yếu tố “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”:

Tuy nhiên: Có vũ trụ thì mới có giang san

Mùi thơm mãi, bia uống mãi không cạn

Trời Đất cho chỗ hiểm là Địa. Vì đại vương coi kẻ thù là nhàn hạ, sẵn sàng đi hết đường lui là Thiện. Nhân tài giữ điện thoại ấy là Nhân, đại tài của một vị tướng được lòng dân. Trong đó vai trò của Nhân là quyết định. Vì anh hùng phải biết tạo thời thế chứ không đợi thời thế. Vì vậy, một lần nữa việc sử dụng các truyền thuyết Trung Quốc (hội Mạnh Tân, trận Duy Thủy) nhấn mạnh vai trò của nhân tài trong việc thu phục nhân tâm. Nhận thức lí trí ấy khơi lại cảm giác bùi ngùi khi nhớ về cố nhân. Một khi đầy kiêu hãnh, thì dẫu có rơi nước mắt, nhưng kiêu hãnh vẫn còn mãi. Nhưng tiếc thay, bây giờ không còn tốt như xưa, nên những giọt nước mắt ấy là nỗi buồn của thế gian.

Dẫu sao, cảm xúc ấy đã được thay thế bằng một sự kế tục qua lời hát của các bô lão và quan khách. Đoạn kết rất đặc trưng của phú cổ, nhưng cái hay là nó đã được người sáng tác dịch thành thơ lục bát. Trong lời ca quan họ, các bô lão so sánh quy luật tự nhiên bất biến của Bạch Đằng giang sẽ cuộn thành biển cũng như quy luật muôn đời của thế gian, kẻ bất nghĩa sẽ diệt vong, kẻ anh hùng sẽ lưu danh thiên cổ. Lời bài hát một lần nữa phê phán mạnh mẽ kẻ thù phương Bắc và ngợi ca những vị anh hùng dân tộc đời đời ghi nhớ. Khách còn mang một nỗi hoài vọng, ngợi ca hai vị thánh nhân nhà Trần tài trí đức cao thu phục lòng người, lợi dụng nơi hiểm địa quét sạch quân thù, đất nước được thái bình Và hòa bình. Ổn. Đoạn kết đã thể hiện sâu sắc tư tưởng nhân văn cao cả. Cả hai lời bài hát đều nhấn mạnh vai trò to lớn của con người trong lịch sử. Điều đó càng làm cho nhà thơ thêm khao khát những người thống trị xã hội bấy giờ.

Khẳng định Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật giàu chất thơ trong văn học trung đại Việt Nam là hoàn toàn đúng. Với cấu trúc, câu đặc sắc, giọng điệu linh hoạt, lối viết ước lệ, tượng trưng kết hợp với lối nói cường điệu, hình ảnh nhân vật độc đáo, đoạn thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ về quá khứ. của Trương Hán Siêu. Qua đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc trước những chiến công trên sông Bạch Đằng và ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hơn nữa, bài đã gửi gắm một tư tưởng nhân văn cao cả, cao đẹp trong việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên ý nghĩa.

Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 10:

Các bài giải bài tập lớp 10 sách mới:

Giới thiệu về kênh Youtube

Phu-song-bach-dang.jsp

Giải bài tập lớp 10 theo sách mới môn học

Bạn thấy bài viết Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu hay nhất – Ngữ văn lớp 10 có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu hay nhất – Ngữ văn lớp 10 bên dưới để Trường Tiểu học Đằng Hải có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: c1danghaihp.edu.vn của Trường Tiểu học Đằng Hải

Nhớ để nguồn bài viết này: Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu hay nhất – Ngữ văn lớp 10 của website c1danghaihp.edu.vn

Chuyên mục: Văn học

Xem thêm bài viết hay:  Hướng dẫn ghi phiếu đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT 2022

Viết một bình luận